Ban Tuyên giáo Trung ương phối hợp với Văn phòng Quốc hội soạn thảo “Đề cương tuyên truyền kết quả kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XV”. Tạp chí Tuyên giáo trân trọng giới thiệu toàn văn bản Đề cương.
. BỐI CẢNH, NỘI DUNG CỦA KỲ HỌP
1. Bối cảnh
Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XV diễn ra sau thành công tốt đẹp của Hội nghị giữa nhiệm kỳ Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII. Đây là kỳ họp của năm bản lề thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng trong bối cảnh tình hình kinh tế thế giới có những biến động khó lường, phức tạp, lạm phát tăng, các nước thắt chặt chi tiêu, làm suy giảm nhu cầu tiêu dùng của thị trường thế giới,… nhưng kinh tế vĩ mô trong nước tiếp tục ổn định, lạm phát được kiểm soát, an sinh xã hội, đời sống của người dân được bảo đảm; các lĩnh vực nông nghiệp, thương mại, du lịch, dịch vụ,… có xu hướng tăng; an ninh, quốc phòng cơ bản bảo đảm, công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đạt được nhiều kết quả quan trọng.
2. Nội dung của Kỳ họp
Quốc hội tập trung xem xét, cho ý kiến và quyết định các nội dung quan trọng, như: thông qua 08 luật, 17 nghị quyết, cho ý kiến lần 2 đối với 01 dự án luật, cho ý kiến lần đầu đối với 08 dự án luật khác; giám sát tối cao chuyên đề “việc huy động, quản lý và sử dụng các nguồn lực phục vụ công tác phòng, chống dịch COVID-19; việc thực hiện chính sách, pháp luật về y tế cơ sở, y tế dự phòng”; tiến hành chất vấn và trả lời chất vấn; xem xét, quyết định các vấn đề về nhân sự, kinh tế - xã hội, ngân sách nhà nước; xem xét báo cáo về tổng hợp kiến nghị của cử tri và Nhân dân, báo cáo kết quả giám sát việc giải quyết kiến nghị của cử tri, cùng một số nội dung quan trọng khác.
II. KẾT QUẢ CỦA KỲ HỌP
1. Công tác lập pháp
1. 1. Các luật, nghị quyết được Quốc hội thông qua
- Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được sửa đổi nhằm hoàn thiện thể chế về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, bảo đảm tính ổn định, thống nhất, đồng bộ, minh bạch, khả thi, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng, tạo động lực cho việc cạnh tranh lành mạnh và phát triển sáng tạo của doanh nghiệp, hỗ trợ, khuyến khích hoạt động của các tổ chức xã hội; đồng thời nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước. Luật gồm 07 chương, 80 điều, trong đó đã bổ sung, hoàn thiện các quy định về: bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng dễ bị tổn thương; bảo vệ thông tin của người tiêu dùng; trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh đối với người tiêu dùng; hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung; một số giao dịch đặc thù; tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng và tổ chức, cá nhân kinh doanh; trách nhiệm quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
- Luật Đấu thầu được sửa đổi để kịp thời tháo gỡ, khắc phục những hạn chế, bất cập của Luật hiện hành; bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong hoạt động đấu thầu, lựa chọn nhà thầu và tăng cường công tác quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước; hạn chế thất thoát, lãng phí, tiêu cực, tham nhũng trong lĩnh vực đấu thầu. Luật gồm 10 chương, 96 điều (trong đó giữ nguyên số điều như Luật hiện hành nhưng sắp xếp lại kết cấu để giảm 03 chương), với một số điểm mới nổi bật sau: (i) Chỉnh sửa quy định phạm vi, đối tượng áp dụng luật, quy trình, thủ tục lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư; quy trình, thủ tục, giảm thời gian đấu thầu, cải cách thủ tục hành chính, đẩy mạnh áp dụng đấu thầu qua mạng; (ii) Sửa đổi, bổ sung nhiều quy định mới về đấu thầu mua sắm thuốc, hóa chất, vật tư y tế để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong hoạt động đấu thầu; (iii) Quy định cụ thể về các hành vi bị cấm, xử lý vi phạm và giải quyết kiến nghị trong hoạt động đấu thầu; (iv) Quy định rõ, minh bạch, cụ thể các trường hợp chỉ định thầu và đấu thầu trong trường hợp đặc biệt; luật hóa những nội dung được quy định ở văn bản dưới luật đã thực hiện ổn định; (v) Quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan trong hoạt động đấu thầu...
- Luật Giá được sửa đổi nhằm hoàn thiện thể chế pháp luật về giá, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong tình hình mới; khắc phục sự chồng chéo, mâu thuẫn với các luật chuyên ngành; hạn chế sự phân tán, thiếu tính đồng bộ, thống nhất trong hệ thống pháp luật về giá, góp phần tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế. Luật gồm 08 chương và 75 điều (tăng 3 chương và 27 điều so với Luật hiện hành), tập trung vào 09 nhóm chính sách: (i) Quyền, nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ, người tiêu dùng; (ii) Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý nhà nước về giá, thẩm định giá; (iii) Quy định Danh mục, nguyên tắc xác định hàng hóa, dịch vụ bình ổn giá; cơ chế xử lý tình huống hàng hóa, dịch vụ cần bình ổn nhưng chưa có trong danh mục để áp dụng trong các trường hợp cấp bách; (iv) Quy định Danh mục, tiêu chí xác định hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá; thẩm quyền và trách nhiệm định giá; phương pháp định giá; (v) Quy định rõ phạm vi hiệp thương giá; trường hợp hiệp thương thành công và hiệp thương không thành công; (vi) Quy định thời điểm kê khai; nguyên tắc xác định hàng hóa, dịch vụ phải kê khai; (vii) Quy định về hoạt động, nguyên tắc, báo cáo, trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị, kinh phí bảo đảm trong công tác tổng hợp, phân tích, dự báo giá thị trường và cơ sở dữ liệu về giá; (viii) Cụ thể hóa các quy định về thẩm định viên về giá, doanh nghiệp định giá; (ix) Quy định chi tiết trường hợp cần thẩm định giá Nhà nước; trách nhiệm, quyền hạn của hội đồng thẩm định giá, thành viên hội đồng thẩm định giá để tạo cơ sở pháp lý, tránh khoảng trống pháp lý trong thẩm định giá của Nhà nước.
- Luật Giao dịch điện tử được sửa đổi nhằm thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng, khắc phục những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn, bảo đảm thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Luật gồm 8 chương và 53 điều (giảm 01 điều so với Luật hiện hành) với một số nội dung lớn như: (i) Mở rộng phạm vi áp dụng giao dịch điện tử tới tất cả hoạt động của đời sống xã hội, theo đó, bỏ quy định loại trừ của Luật Giao dịch điện tử năm 2005; (ii) Quy định chi tiết cách thức xác định giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu; (iii) Bổ sung quy định về điều kiện đảm bảo giá trị pháp lý khi chuyển đổi từ bản giấy sang thông điệp dữ liệu và ngược lại; quy định về chứng thư điện tử; quy định đối với các hình thức xác nhận khác bằng phương tiện điện tử mà không phải chữ ký điện tử; các quy định về quản lý dữ liệu, cơ sở dữ liệu, dữ liệu mở, các quy định đối với cơ quan nhà nước nhằm thúc đẩy hoạt động giao dịch điện tử; đẩy mạnh chuyển đổi số, phát triển Chính phủ số, kinh tế số và xã hội số...
- Luật Hợp tác xã được sửa đổi nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý, bảo đảm sự thống nhất, đầy đủ của hệ thống pháp luật, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế tập thể với nhiều mô hình hợp tác, liên kết trên cơ sở tôn trọng bản chất, giá trị và nguyên tắc của kinh tế tập thể, thu hút ngày càng nhiều nông dân, hộ gia đình, cá nhân và tổ chức tham gia; góp phần nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc sống của các thành viên của các tổ hợp tác, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, thúc đẩy phát triển nhanh, bền vững đất nước, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Luật gồm 12 chương và 115 điều (tăng 3 chương, 51 điều so với Luật hiện hành), trong đó tập trung thể chế hóa nội dung 08 chính sách tại Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 16/6/2022 của Ban Chấp hành Trung ương; bổ sung quy định về đăng ký tổ hợp tác nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ hợp tác phát triển; các quy định liên quan đến cá nhân là nhà đầu tư nước ngoài, tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trong việc thành lập, trở thành thành viên của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; các quy định về tổ chức quản trị, tài sản, tài chính, kiểm toán của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; quy định về nhiệm vụ của tổ chức đại diện, trách nhiệm quản lý nhà nước của Ủy ban nhân dân các cấp đối với tổ hợp tác, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã…
- Luật Phòng thủ dân sự được ban hành nhằm tạo khung khổ pháp lý chung cho việc phòng, chống, khắc phục hậu quả chiến tranh, sự cố, thảm họa, thiên tai, dịch bệnh; đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước gắn với củng cố quốc phòng, an ninh và hội nhập quốc tế trong tình hình mới. Luật gồm 7 chương và 71 điều với 06 nhóm chính sách, gồm: (i) Đánh giá mức độ rủi ro của thảm họa, sự cố, thiên tai, dịch bệnh trong hoạt động phòng thủ dân sự; (ii) Phân công trong quản lý nhà nước và phân cấp trong tổ chức hoạt động phòng ngừa, ứng phó, khắc phục thảm họa, sự cố, thiên tai, dịch bệnh; (iii) Quy định các biện pháp bảo vệ người dân trước thảm họa, sự cố, thiên tai, dịch bệnh và hỗ trợ người dân bị thiệt hại; (iv) Đổi mới tổ chức của Ban Chỉ đạo Phòng thủ dân sự quốc gia; (v) Ứng dụng công nghệ dữ liệu lớn (big data) trong phòng ngừa, ứng phó, khắc phục hậu quả thảm họa, sự cố, thiên tai, dịch bệnh; (vi) Hoạt động phòng thủ dân sự trong tình trạng khẩn cấp.
- Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công an nhân dân được ban hành nhằm thể chế hóa chủ trương, quan điểm của Đảng về xây dựng công an nhân dân đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới; khắc phục một số khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện Luật Công an nhân dân hiện hành; bảo đảm thống nhất, đồng bộ với quy định về tăng tuổi nghỉ hưu của người lao động. Luật gồm 02 Điều tập trung 03 chính sách: (i) Tăng hạn tuổi phục vụ cao nhất của sĩ quan, hạ sĩ quan, công nhân công an để bảo đảm thống nhất, đồng bộ với các quy định của Đảng, Nhà nước và yêu cầu thực tiễn; (ii) Thăng cấp bậc hàm cấp tướng trước thời hạn đối với sĩ quan công an nhân dân có thành tích đặc biệt xuất sắc đạt được trong chiến đấu và công tác; (iii) Bổ sung, điều chỉnh một số chức vụ, chức danh của sĩ quan công an nhân dân có cấp bậc hàm cao nhất.
- Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam và Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam được ban hành nhằm kịp thời thể chế hóa chủ trương của Đảng về hội nhập quốc tế và phát triển du lịch, dịch vụ, tạo sự thông thoáng về thủ tục, chính sách mở rộng thị thực điện tử, kéo dài thời hạn thị thực cho người nước ngoài nhập cảnh Việt Nam, tạo điều kiện thúc đẩy thu hút du lịch, đầu tư, hợp tác kinh doanh; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong thực hiện dịch vụ công. Luật gồm 3 Điều, cụ thể: (i) Điều 1 gồm 15 khoản sửa đổi, bổ sung 15 điều của Luật Xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam, trong đó: bổ sung thông tin về nơi sinh trên giấy tờ xuất nhập cảnh; đơn giản hóa thủ tục nộp hồ sơ đề nghị cấp giấy tờ xuất nhập cảnh của công dân Việt Nam và người nước ngoài; chuyển thẩm quyền ký kết điều ước quốc tế về tiếp nhận trở lại công dân Việt Nam không được phía nước ngoài cho cư trú từ Bộ Ngoại giao sang Bộ Công an; quy định việc hủy hộ chiếu sau 12 tháng đã thông báo mà công dân không đến nhận…; (ii) Điều 2 gồm 10 khoản, sửa đổi, bổ sung 10 Điều của Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam, trong đó: nâng thời hạn của thị thực điện tử từ 30 ngày lên đến 90 ngày và có giá trị một lần hoặc nhiều lần; mở rộng các nước, vùng lãnh thổ có công dân được cấp thị thực điện tử và các cửa khẩu quốc tế cho người nước ngoài nhập cảnh, xuất cảnh bằng thị thực điện tử; mở rộng thời hạn tạm trú từ 15 ngày lên 45 ngày cho công dân của nước được Việt Nam đơn phương miễn thị thực và được xem xét cấp thị thực, gia hạn tạm trú...; (iii) Điều 3 gồm 04 khoản quy định về hiệu lực thi hành và quy định chuyển tiếp .
- Nghị quyết về việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn được sửa đổi nhằm kịp thời thể chế hóa Quy định số 96-QĐ/TW ngày 02/02/2023 của Bộ Chính trị về việc lấy phiếu tín nhiệm đối với chức danh, chức vụ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân, phát huy hiệu quả công tác lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm tại Quốc hội, Hội đồng nhân dân, nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu và hiệu quả hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Nghị quyết gồm 22 điều với nội dung sửa đổi, bổ sung tập trung vào các căn cứ đánh giá mức độ tín nhiệm, hệ quả của việc lấy phiếu tín nhiệm và điều chỉnh một số nội dung về quy trình, thủ tục lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn.
- Nghị quyết về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển Thành phố Hồ Chí Minh được ban hành để thay thế Nghị quyết số 54/2017/QH14 nhằm tạo điều kiện hơn nữa cho Thành phố Hồ Chí Minh khơi thông nguồn lực, tạo đà phát triển, khai thác tối đa tiềm năng, thế mạnh của Thành phố để phát triển tương xứng với vị trí đầu tàu về kinh tế - xã hội của vùng Đông Nam Bộ và cả nước. Nghị quyết có 12 Điều với nhiều nội dung quan trọng, trong đó, đã kế thừa 07 cơ chế chính sách tại Nghị quyết số 54/2017/QH14, cho phép thực hiện 04 cơ chế chính sách như các địa phương khác thực hiện thí điểm, bổ sung một số nhóm chính sách mới như: (i) Cho phép thí điểm BOT trên đường hiện hữu; (ii) Thực hiện các dự án BT; (iii) Thí điểm mô hình phát triển đô thị theo định hướng phát triển giao thông; (iv) Mở rộng phạm vi các dự án đầu tư theo phương thức đối tác công tư (PPP); (v) Bố trí khoản chưa phân bổ từ 2% đến 4% tổng chi ngân sách quận để thực hiện các nhiệm vụ phát sinh; (vi) Cơ chế cho công ty đầu tư tài chính nhà nước Thành phố Hồ Chí Minh (HFIC); (vii) Hệ số điều chỉnh giá đất (hệ số K); (viii) Cơ chế tài chính thực hiện biện pháp giảm phát thải khí nhà kính theo các cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ các-bon; (ix) Linh hoạt trong việc quy hoạch bố trí nhà ở xã hội phù hợp thực tiễn; (x) Cơ chế khuyến khích nhà đầu tư tăng cường chuyển xử lý chất thải rắn sinh hoạt sang xử lý chất thải rắn sinh hoạt có thu hồi năng lượng; (xi) Chính sách thu hút nhà đầu tư chiến lược; (xii) Hỗ trợ hoạt động đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp trong các lĩnh vực ưu tiên của Thành phố; (xiii) Linh hoạt trong tổ chức bộ máy của thành phố Hồ Chí Minh và của thành phố Thủ Đức; (xiv) Tiếp tục nghiên cứu, đề xuất những cơ chế, chính sách chưa được quy định tại các Luật và Nghị quyết của Quốc hội để trình cấp có thẩm quyền quyết định.
- Nghị quyết về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2024, điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2023 được xây dựng theo hướng mở, cho phép bổ sung các dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết trong quá trình chuẩn bị thấy cần thiết, cấp bách và được chuẩn bị tốt để kịp thời đáp ứng yêu cầu của thực tiễn; trong đó đã điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2023 để bổ sung 07 dự án luật, 01 dự án pháp lệnh; Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2024 gồm 20 dự án luật, 01 dự thảo nghị quyết của Quốc hội.
1.2. Các dự án luật được Quốc hội cho ý kiến
- Dự án Luật Đất đai (sửa đổi) tiếp tục được hoàn thiện trên cơ sở ý kiến của đại biểu Quốc hội tại Kỳ họp thứ 4, Hội nghị đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách và ý kiến góp ý của Nhân dân. Quốc hội đã tập trung thảo luận về: mức độ thể chế hóa Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 16/6/2022 của Ban Chấp hành Trung ương về “tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và sử dụng đất, tạo động lực đưa nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao”; tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật; một số nội dung cốt lõi về quy hoạch sử dụng đất; tài chính đất đai, giá đất; thu hồi đất, nhất là thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng; bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; phát triển quỹ đất; giao đất, cho thuê đất thông qua đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án có sử dụng đất, không đấu giá quyền sử dụng đất, không đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án có sử dụng đất, thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất hoặc đang có quyền sử dụng đất; các trường hợp cho thuê đất trả tiền thuê đất một lần và trả tiền thuê đất hằng năm; mở rộng đối tượng nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp, trong đó có đất trồng lúa; cấp Giấy chứng nhận cho hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có giấy tờ về quyền sử dụng đất; đất quốc phòng, an ninh; đất sử dụng cho khu kinh tế; đồng thời, yêu cầu chuẩn bị các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành và các quy định chuyển tiếp...
- Dự án Luật Kinh doanh bất động sản (sửa đổi) được xây dựng nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về kinh doanh bất động sản, khắc phục những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn; bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật, góp phần phát triển thị trường bất động sản ổn định, minh bạch, lành mạnh, theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Quốc hội đã tập trung thảo luận các nội dung liên quan đến: phạm vi điều chỉnh; sự đồng bộ, thống nhất với các dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi), Luật Nhà ở (sửa đổi) và các luật khác có liên quan đang được Quốc hội xem xét; các loại bất động sản đưa vào kinh doanh; kinh doanh nhà ở, công trình xây dựng có sẵn và hình thành trong tương lai; chuyển nhượng dự án bất động sản; sàn giao dịch bất động sản; môi giới bất động sản; hệ thống thông tin, dữ liệu về nhà ở và thị trường bất động sản; điều tiết thị trường bất động sản;…
- Dự án Luật Nhà ở (sửa đổi) được xây dựng nhằm khắc phục hạn chế, vướng mắc, những vấn đề còn chưa phù hợp với thực tiễn của pháp luật hiện hành, bổ sung các vấn đề mới nảy sinh; hoàn thiện các quy định, chế tài để xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm chính sách, pháp luật về nhà ở; luật hóa các quy định dưới luật đã được thực tiễn khẳng định phù hợp nhằm góp phần ổn định chính trị - xã hội, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quyền có nhà ở của công dân, bảo đảm an ninh, quốc phòng, an sinh xã hội. Quốc hội đã tập trung thảo luận những nội dung về: chương trình, kế hoạch phát triển nhà ở; hình thức sử dụng đất được đầu tư xây dựng dự án nhà ở thương mại; bán, cho thuê, cho thuê mua nhà ở xã hội; tiêu chuẩn nhà ở xã hội, nhà tái định cư; nhà lưu trú công nhân;